Các VĐV Olympic kiểm soát trọng lượng cơ thể ra sao?

Có lẽ điều kỳ lạ tới mức buồn cười với Hilary Stellingwerff là việc cô đã tham gia hầu hết các giải thi đấu mà trong đó các trường hợp thi đấu không trung thực đều xảy ra.

Nữ hoàng chạy cự ly trung bình của Canada này đã về đích ở vị trí thứ sáu trong vòng bán kết cự ly 1.500m tại Olympic 2012, đứng dưới một người và cách vòng chung kết một phần mười giây. Sau đó, sáu trong số 9 người về đích đầu tiên trong vòng chung kết, bao gồm cả vận động viên huy chương vàng và huy chương bạc, đều được xét nghiệm dương tính với chất kích thích. Thực sự, người ta đã đánh cắp cơ hội của cô.

Nhưng giải đó chỉ là một nốt trầm trong sự nghiệp chạy bộ tuyệt vời của cô. Thành tích cự ly 1.500m của Stellingwerff dao động từ 4:05 đến 4:08 trong giai đoạn 2005-2016, trừ năm 2014 (khi mang thai) và 2015 (thành tích của cô là 4:10 sau khi trở lại sau sinh). Cô duy trì thành tích 4:05 trong 3 năm 2006, 2012, và 2016—hai năm cuối trong ba năm này là thời gian cô dự Olympic, bao gồm cả vòng bán kết tôi đã nhắc tới ở phần trên. Thành tích của Stellingwerff tốt nhất khi có sự đua tranh mạnh mẽ nhất.

Tại một hội nghị diễn ra vài năm trước, tôi có cơ hội tìm hiểu cách tiếp cận đằng sau sự ổn định về phong độ và khả năng chọn điểm rơi đúng thời điểm của cô. Chồng cô và cũng là huấn luyện viên, ông Trent Stellingwerff, là một chuyên gia sinh lý học tại Viện Thể thao Sport Pacific của Canada tại Victoria trình bày số liệu chi tiết về cân nặng của cô qua nhiều năm. Đó là giây phút khá hài hước vì hầu hết mọi người đều không thể tưởng tượng được nếu mình trưng thông số cân nặng của bạn đời của mình trước mắt đám đông người lạ thì sẽ ra sao. Nhưng những con số không biết nói dối. Sự tiến bộ của Hilary không phải là sự tình cờ.

Hiện nay ông Trent đã công bố đầy đủ số liệu hơn sau khi cập nhật năm 2016 và đăng tải lên Tạp chí International Journal of Sport and Exercise Metabolism. Đây là cơ hội hiếm hoi chúng ta có thể nghiên cứu chi tiết về việc chuẩn bị thi đấu của một vận động viên Olympic và là cơ hội tốt để trao đổi về một chủ đề quan trọng vì cân nặng, thành tích thi đấu và sức khỏe có sự tương quan với nhau theo nhiều cách khác nhau và đây cũng chính là nguồn gốc của nhiều vấn đề nghiêm trọng mà nhiều vận động viên đã gặp phải.

Chúng ta bắt đầu từ biểu đồ dưới đây. Trục tung là tổng số đo độ dày của da tại 8 điểm để tính toán tỷ lệ mỡ của cơ thể. Trục hoành là trục thời gian trong đó các giai đoạn điểm rơi phong độ đỉnh được tô đậm. Các ngôi sao thể hiện số đo độ dày da thấp nhất trong quá trình thi đấu ở từng giai đoạn thi đấu.

Đồ thị lượng mỡ (tương ứng với cân nặng) của Hilary trong từng giai đoạn. Nguồn:
International Journal of Sport and Exercise Metabolism

Biểu đồ này không phải là hình sin hoàn hảo nhưng khá giống với hình sin. Hilary để cho cân nặng và lượng mỡ trong cơ thể tăng trong thời gian không thi đấu và sau đó giảm các chỉ số này khi bắt đầu thi đấu. Biên độ thay đổi cân nặng mục tiêu ở từng chu kỳ là 2-4%.

Tại sao chúng ta phải quan tâm đến các chỉ số này? Theo Tren, “Số liệu trên cho thấy chúng ta khó có thể duy trì thành phần cơ thể tối ưu trong cả năm trên cả phương diện sức khỏe và/hoặc thành tích. Đo dó, thành phần cơ thể cần được thay đổi theo giai đoạn.” Nói cách khác, chúng ta không thể duy trì cân nặng như khi thi đấu cả năm vì nguy cơ suy nhược cơ thể hoặc chấn thương rất cao.

Một trong những điều đặc biệt trong sự nghiệp của Hilary là cô chỉ bị 2 lần chấn thương phải nghỉ tập luyện tối thiểu 1 tuần. Đây là điều rất đặc biệt. Các tấm phim chụp DEXA theo thời gian cho thấy mật độ xương của cô ở trên mức bình thường. Chu kỳ kinh nguyệt của cô bình thường (mỗi năm bị lỡ không đến 3 kỳ) trong thời gian 5 năm khi cô không dùng viên tránh thai. Chỉ số lượng sắt trong cơ thể của cô đạt mức ferritin bình quân 91 uG/L. Đối với một vận động viên sức bền ưu tú phải quan tâm tới từng lạng cân nặng như cô, Hilary là một vận động viên rất khỏe mạnh.

Bí quyết lên kế hoạch điều chỉnh cân nặng

Vậy bí quyết của hai vợ chồng cô là gì? Ông Trent trình bày một số điểm cốt lõi như sau:

  • Họ chú trọng vào khái niệm “năng lượng khả dụng”, trong đó bao gồm việc tính toán lượng calo cần thiết để đáp ứng nhu cầu tập luyện và nhu cầu trao đổi chất. Trong giai đoạn không thi đấu, cả hai đảm bảo Hilary đạt ngưỡng này.
  • Tính toán cân nặng khi thi đấu—đây là con số họ quyết định từng năm trên cơ sở kinh ghiệm rút ra từ những năm trước—đây là cách tiếp cận dần theo thời gian. Mục tiêu đặt ra của cả hai là đạt cân nặng mục tiêu trong sáu đến tám tuần trên cơ sở bổ sung thiếu 300 calo mỗi ngày so với ngưỡng.
  • Mẹo thứ nhất để đạt được con số này rất đơn giản: cắt giảm đồ ngọt và chất béo. Cả hai tính chi tiết chế độ ăn của Hilary theo từng giai đoạn, đảm bảo cô bổ sung năng lượng đầy đủ vào ngày tập nặng và cắt giảm các bữa ăn nhẹ và khẩu phần tinh bột vào ngày tập nhẹ.
  • Để tránh bị hao hụt cơ quá nhiều trong giai đoạn giảm cân, họ tăng khẩu phần đạm trong chế độ ăn của cô; Ông Trent cho biết mục tiêu là 2-2,5 gram đạm trên mỗi kg trọng lượng cơ thể. Phương pháp này có lẽ đã phát huy tác dụng khi số đo vòng đùi của Hilary không thay đổi giữa giai đoạn thi đấu và không thi đấu mặc dù cô hao hụt trung bình 2,1% trọng lượng cơ thể và tỷ lệ mỡ trong cơ thể giảm từ 12.9% xuống còn 10.6%.
  • Đương nhiên, việc học theo các vận động viên Olympic vẫn tiềm ẩn những nguy cơ, đặc biệt khi không phải ai cũng có chuyên gia sinh lý học riêng để theo dõi giám sát tình trạng sức khỏe. Cân nặng là vấn đề khiến nhiều người lo lắng, đặc biệt (mặc dù không chỉ riêng) các vận động viên nữ. Chúng ta đừng quá lo lắng về cân nặng hoặc mắc phải sai lầm trong việc đánh đồng giữa “gầy” và “nhanh.”

Nếu có, tôi cho rằng có hai thông điệp hữu ích có thể rút ra từ câu chuyện này. Thứ nhất, dù mục tiêu cân nặng khi thi đấu của bạn là bao nhiêu đi nữa, đừng nên duy trì mức cân nặng đó liên tục. Nên để cơ thể tăng cân thêm một chút vào một vài giai đoạn nào đó. (Cũng có khả năng Stellingwerff cho rằng việc tập luyện khi tăng thêm vài cần có thể tiếp thêm động lực tập luyện, giống như việc đeo tạ khi tập.)

Thông điệp còn lại là xác định khẩu phần ăn hàng ngày theo từng giai đoạn phù hợp với nhu cầu tập luyện cụ thể. Như tôi đã viết trong một bài viết gần đây, Trường Y học Thể thao Hoa Kỳ đã đưa ra một phát ngôn nêu quan điểm về vấn đề dinh dưỡng và thành tích thi đấu, theo đó chúng ta cần tăng nạp tinh bột vào những ngày tập nặng và giảm vào ngày tập nhẹ – đây là phương pháp mà hai phần ba các vận động viên chạy bộ đường dài ưu tú đã áp dụng theo một nghiên cứu mới công bố đầu năm nay nhưng theo tôi phương pháp này chưa được công bố rộng rãi ra công chúng.

Kết

Thay lời kết, đối với tôi thông điệp lớn nhất mà tôi rút ra là sự ngưỡng mộ sự nghiệp của Hilary. Tôi quen biết cả Hilary và Trent đã nhiều năm và cả hai đều là bạn tôi nên tôi có thể khẳng định rằng: Việc Hilary hai lần vô địch Olympic (và theo tôi một lần lọt vào chung kết Olympic) không phải là điều tất yếu. Qua nhiều năm theo dõi giới chạy bộ của Canada, tôi thấy đã xuất hiện rất nhiều vận động viên nữ có tiềm năng đạt được thành công mang tầm cỡ quốc tế như cô nhưng Hilary là ví dụ hoàn hảo về sự tiến bộ bền bỉ và phong độ cao. Nghiên cứu điển hình này cho thấy sự chuẩn bị tỉ mỉ và tập luyện chăm chỉ đã giúp Hilary có được một sự nghiệp rực rỡ. Xin chúc mừng cô!

Các bài viết liên quan:

Trọng lượng tối ưu trong thi đấu

Chạy bộ và giảm mỡ – những điều cần biết

The post Các VĐV Olympic kiểm soát trọng lượng cơ thể ra sao? appeared first on BoiDapChay.com.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *